thời đại nguyễn du

ĐẾN SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN DU A. MỞ ĐẦU Thời đại, quê hương gia đình có ảnh hưởng quan trọng trong cuộc đời và những sáng tác của một tác gia lớn. Đó chính là những cơ sở, là nền tảng bồi đắp nên những tâm hồn lớn, những nhà văn, nhà thơ lớn. Đó là mảnh đất dồi dào phù sa vun trồng tài năng và nhân cách của nhà thơ, nhà văn. Tại Điều 7 dự thảo nội quy kỳ họp sửa đổi quy định về tài liệu phục vụ kỳ họp Quốc hội, đại biểu bày tỏ nhất trí với hình thức chế tài nhằm khắc phục tình trạng các cơ quan trọng gửi tài liệu theo hướng công khai danh sách và lý do gửi chậm tài liệu. Tuy nhiên, đại biểu đề nghị cần quy Thời hậu đại dịch, số người làm việc ở văn phòng đã không còn đông đảo như xưa. Điển hình là những bãi đậu xe của các trạm xe lửa GO trong vùng đại thủ phủ Toronto: trước thời đại dịch, các bãi đậu xe này đều kín chỗ sau 8 giờ sáng những ngày trong tuần. Nhưng Đại thi hào Nguyễn Du còn đi trước thời đại mình qua cái nhìn đối với nhiều vấn đề lịch sử. Đứng trước dòng Linh giang gần 150 năm chia cắt đất nước, nhà thơ không chỉ nhìn về quá khứ mà còn nêu ra một vấn đề vô cùng quan trọng cho hiện tại và tương lai Xem thêm về Hội Sinh viên Trường Đại học Khoa học Tự nhiên ĐHQG TP. Hồ Chí Minh trên Facebook BẠN CẦN ĐỌC KỸ - Thời gian tham gia: Từ 12/10/2022 đến 18h00 ngày 15/10/2022 (Thứ 7) Địa điểm: Phòng I23, Cơ sở 1 (227 Nguyễn Văn Cừ, phường 4, quận 5, TP. Hồ Chí Minh). Đối materi bahasa jawa kelas 1 sd pdf. Bạn đang quan tâm đến Tóm Tắt Tiểu Sử Nguyễn Du phải không? Nào hãy cùng đón xem bài viết này ngay sau đây nhé, vì nó vô cùng thú vị và hay đấy! Đại thi hào Nguyễn Du – Danh nhân văn hóa thế giới, là một trong những tác giả tiêu biểu nhất trên văn đàn Việt Nam. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ, Nguyễn Du đã trở thành lịch sử và một huyền thoại, đặc biệt với tác phẩm Truyện Kiều đã đưa văn học Việt Nam đến gần hơn với bạn bè quốc tế. Sau đây là chi tiết vềcuộc đời và sự nghiệp văn chương của đại thi hào Nguyễn DuCó thể bạn quan tâm Hội chứng trái tim tan vỡ có là thật? Hướng Dẫn Sử Dụng Excel 2010 Qua Hình Ảnh Trong Excel 2007, 2010 Hướng Dẫn Adobe After Effect, 50 Bài Hướng Dẫn After Effect Xuất Sắc ĐƯỜNG CHÍ TUYẾN LÀ GÌ Kiên nhẫn là gì? Đặc điểm và cách rèn luyện tính kiên nhẫn Tóm lược tiểu sử cuộc đời Nguyễn Du Nguyễn Du sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766? -1820 tự là Tố Như 素如, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ, Nam Hải điếu đồ, là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là “Đại thi hào dân tộc” và được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới“. Ông có một cuộc đời vô cùng gian truân và cực đang xem Tiểu sử của nguyễn du Cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX. Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động với hai đặc điểm nổi bật là chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng và phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Yếu tố thời đại đã ảnh hưởng sâu sắc tới ngòi bút của Nguyễn Du khi viết về hiện thực đời sống. cuộc đời từng trải, phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho Nguyễn Du vốn sống phong phú và niềm thông cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân. Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa đang xem Tóm tắt tiểu sử nguyễn du Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài không quá mười năm. Vì 10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các anh em ruột phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản khi ấy ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi. Năm 1780 , khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ mật án Canh Tý” Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh Tông. Ông Khản giúp Trịnh Tông, việc bại lộ, bị giam. Đến khi Trịnh Tông lên ngôi, ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng. Quân lính khác phe sử gọi là “kiêu binh” không phục, kéo đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải trang trốn lên Sơn Tây sống với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh . Thế là anh em Nguyễn Du từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã. Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường tú tài, sau đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa. Trước đây, một võ quan họ Hà không rõ tên ở Thái Nguyên , không có con nên đã nhận ông làm con nuôi. Vì thế, khi người cha này mất, Nguyễn Du được tập ấm một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên. Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên . Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín Hà Tây, nay thuộc Hà Nội. Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau Năm 1803 đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc. Xem Thêm Đá Phò Là Gì? Tìm Hiểu Về Hành Động NàyNăm 1805 thăng hàm Đông Các điện học sĩ. Năm 1807 làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương. Năm 1809 làm Cai bạ dinh Quảng Bình. Sau khi đi sứ về vào năm 1814 , ông được thăng Hữu tham tri Bộ thêm Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng 1791-1840 lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột trong một trận dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9 năm 1820. Lúc đầu 1820, Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền Hà Tĩnh. Sự nghiệp văn học của đại thi hào Nguyễn Du Xét về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm, tức đề cao “tình”. Điều quan trọng hàng đầu, là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh xem Văn tế thập loại chúng sinh, Sở kiến hành, Thái Bình mại ca giả Cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là “tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19”. Riêng với Truyện Kiều, kiệt tác này còn “thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu lứa đôi.” Tác phẩm bằng chữ Hán Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được ba nhà nho là Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du NXB Văn hóa, 1959 chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965 NXB Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài như sau Xem Thêm TÍCH TRONG TOÁN HỌC LÀ GÌThanh Hiên thi tập còn gọi là Thanh Hiền tiền hậu tập Tập thơ của Thanh Hiên gồm 78 bài thơ trong giai đoạn 1786-1804, gồm 10 năm gió bụi, ông sống ở Thái Bình quê vợ, 6 năm trở lại nhà dưới chân núi Hồng, và 2 năm làm chi huyện ở huyện Bắc Hà. Tập thơ là các bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn. Nam trung tạp ngâm Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam gồm 40 bài, giai đoạn 1805-1812, ông được thăng hàm Đông các đại học sĩ, làm quan ở Kinh Đô 5 năm và làm cai bạ ở Quảng Bình 3 năm Bắc hành tạp lục Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc gồm 131 bài thơ, giai đoạn 1813-1814, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc. Tác phẩm bằng chữ Nôm Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có Đoạn trường tân thanh còn có tên gọi khác là Kim Vân Kiều truyện,Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột. Tên phổ biến là Truyện Kiều, được viết bằng chữ Nôm, gồm câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc. Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học bộ mới ghi “Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc 1814-1820, có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình 1804-1809. Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn”. Văn chiêu hồn tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa Văn tế mười loại chúng sinh, còn có tên gọi khác là Văn chiêu hồn, Văn tế chiêu hồn. Vài nét về tác phẩm truyện Kiều – tác phẩm tiêu biểu nhất của đại thi hào Nguyễn Du Đoạn trường tân thanh, thường được biết đến với cái tên đơn giản là Truyện Kiều là một truyện thơ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây được xem là truyện thơ nổi tiếng nhất và xét vào hàng kinh điển trong văn học Việt Nam, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát, gồm 3254 câu. Câu chuyện dựa theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, một thi sĩ thời nhà Minh, Trung Quốc. Tác phẩm kể lại cuộc đời, những thử thách và đau khổ của Thúy Kiều, một phụ nữ trẻ xinh đẹp và tài năng, phải hy sinh thân mình để cứu gia đình. Để cứu cha và em trai khỏi tù, cô bán mình kết hôn với một người đàn ông trung niên, không biết rằng anh ta là một kẻ buôn người, và bị ép làm kĩ nữ trong lầu thêm Các Món Ngon Từ Cá Basa Kho Ngon Đậm Vị, Cách Chế Biến Cá Basa Đúng Cách Nguyễn Du xứng đáng là đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới, là vì sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam. Nguồn Danh mục Kiến thức Vậy là đến đây bài viết về Tóm Tắt Tiểu Sử Nguyễn Du đã dừng lại rồi. Hy vọng bạn luôn theo dõi và đọc những bài viết hay của chúng tôi trên website Chúc các bạn luôn gặt hái nhiều thành công trong cuộc sống! Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn DuVnDoc mời các bạn cùng tham khảo bài viết Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của danh nhân Nguyễn TrãiTiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Đình ThiTiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Bằng ViệtTruyện Kiều - Nguyễn DuNguyễn Du là một trong những tác giả tiêu biểu nhất trên văn đàn Việt Nam. Nguyễn Du rất đề cao cảm xúc, là một nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững rất nhiều thể thơ của Trung Quốc thế nên hầu hết ở bất cứ thể loại thơ nào ông cũng có thể hoàn thành tác phẩm một cách xuất sắc. Nhắc đến Nguyễn Du không ai là không nhớ đến tài năng làm thơ bằng chữ Nôm và đỉnh cao trong đó là tác phẩm Truyện Kiều, đã cho thấy được tài năng truyền tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện và nhiều năm miệt mài trong sự nghiệp cầm bút, Nguyễn Du để lại cho nền văn học Việt Nam một khối lượng tác phẩm đồ sộ. Trong bài viết này VnDoc mời các bạn cùng tìm hiểu về tiểu sử cuộc đời cũng như sự nghiệp đại thi hào Nguyễn Tóm tắt tiểu sử Nguyễn DuThân thế, sự nghiệp của Đại thi hào Nguyễn Du- Quê Tiền Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh- Sinh trưởng trong 1 gia đình đại quý tộc nhiều đời làm quan và truyền thống văn chương- Sống trong 1 giai đoạn lịch sử đầy biến động- Cuộc đời đầy những bước thăng trầm- Có kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hoá dân tộc và văn hoá Trung Quốc- Trái tim giàu tình yêu thương- Một thiên tài văn học, nhà nhân đạo, chủ nghĩa, danh nhân văn hoá. Có những đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học Việt Nam2. Truyện Kiều - Đoạn trường tân thanh- Là kiệt tác văn học với sự sáng tạo tài tình của Nguyễn Du- Dựa theo cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm tài nhân- Gồm 3254 câu thơ lục bát- Gồm 3 phần+ Gặp gỡ và đính ước+ Gia biến và lưu lạc+ Đoàn tụ2. Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn DuNguyễn Du tự là Nhữ Hiền; 1809–1868 là một danh thần triều Nguyễn, hy sinh trong trận quân Pháp tấn công Đại đồn Chí Hòa. Ông cũng chính là em của danh tướng Nguyễn Tri PhươngÔng sinh ngày 21 tháng chạp năm Kỷ Tỵ 1809, tại làng Đường Long tức Chí Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Thuở nhỏ ông thông minh, hiếu học, năm Đinh Dậu 1837 đỗ Tú tài, năm Thiệu Trị nguyên niên đậu Cử nhân khoa Tân Sửu 1841. Năm sau Nhâm Dần 1842, thi Đình đậu Tam giáp đồng tiến 1843, ông được bổ dụng làm Biên tu ở Nội các, năm sau thăng Tu soạn, năm 1845 được bổ Tri phủ Tân An ở Gia Định, năm 1847 chuyển về làm Tri phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Cùng trong năm này, thân phụ ông mất, ông phải về cư tang. Đến năm sau 1848, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng 1851, ông được thăng Tập hiền viện Thị độc sung giảng sách ở Tòa Kinh diên. Năm 1852, ông làm Thị giảng học sĩ. Cùng năm này ông được sung vào phái bộ đi sứ sang Trung Quốc. Sau khi đi sứ về, ông được thăng hàm Hồng lô tự khanh, sung chức Biện lý bộ Lại kiêm Nội các, làm việc tại triều 1856, tàu chiến Pháp đến khiêu khích ở Đà Nẵng, ông được phái vào giúp Tổng đốc Quảng Nam là Đào Trí lo chống giặc. Năm 1860 thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định, ông sung chức Gia Định Quân thứ Tán lý quân vụ trông coi việc quân 16 tháng giêng năm Tân Dậu tức ngày 25 tháng 2 năm 1861, Trung tướng Hải quân Pháp là Charner đánh phá Đại đồn Chí Hòa do anh Nguyễn Duy là Nguyễn Tri Phương trấn giữ. Dưới áp lực của quân Pháp, ông chiến đấu anh dũng và hy sinh tại trận một lần với Tôn Thất Trì. Riêng Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển thì bị thương. Cuối cùng Nguyễn Tri Phương rút được về Biên khi ông mất, triều đình truy tặng hàm Binh bộ Tả tham tri và được thờ tại đền Trung Nghĩa, Trung Hiếu cùng anh là Nguyễn Tri Phương và cháu là Phò mã Nguyễn Du chữ Hán 阮攸; 1765–1820 [1] là một nhà thơ Việt Nam. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Truyện Kiều Đoạn trường tân thanh.Nguyễn Du tên tự là Tố Như 素如, tên hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp đờiÔng quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời thơ ấu ở Thăng Long. Ông thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt cha là Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm làm tới tể tướng dưới triều Lê; mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh Bắc Nguyễn Nghiễm có 8 vợ, 21 người con. Anh khác mẹ con bà chính của ông là Toản Quận Công Nguyễn Khản làm tới Tham Tụng, Thái Bảo trong 1771, ông cùng gia đình Tể tướng Nguyễn Nghiễm chuyển về ở làng Tiên 1775, lúc 10 tuổi Nguyễn Du mồ côi 1778, lúc mười ba tuổi mồ côi mẹ, ông phải ra Thăng Long ở với anh cả là Nguyễn Khản. Được vài năm, Nguyễn Du trở về làng Tiên Điền ở với người chú là Tiến sĩ Nguyễn 1783, Nguyễn Du thi hương tại trường thi Nghệ An và đậu Tam trường. Vì lẽ gì không rõ, ông không tiếp tục thi lên nữa, mà đi nhận một chức quan võ ở Thái Nguyễn, kế chân người cha nuôi của ông vừa mới từ 1789, Nguyễn Huệ kéo binh ra Bắc, đại thắng quân nhà Thanh. Nguyễn Du, vì tư tưởng trung quân phong kiến, không chịu ra làm quan cho nhà Tây năm 1789 đến năm 1795, ông sống ở Thái Bình- quê 1796 Nguyễn Du dự định vào Gia Định cộng tác với Chúa Nguyễn, âm mưu bị bại lộ, bị nhà Tây Sơn bắt giam ba thể Nguyễn Du đã thai nghén Truyện Kiều vào thời gian này; năm đó Nguyễn Du đúng 30 tuổi "Trải qua một cuộc bể dâu" - một bể dâu bằng khoảng 30 năm [2].Nhưng theo Giáo sư Nguyễn Lộc "Từ điển Văn học" tập II - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1984 trang 455 viết "Đoạn trường tân thanhđoạn trường đứt ruột; tân thanh tiếng mới. là một truyện thơ Nôm viết bằng thể lục bát, dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc 1814-20. Có thuyết nói Nguyễn Du viết trước khi đi sứ, có thể vào thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình 1804-09. Thuyết sau này được nhiều người chấp nhận" [3].Chi tiết xem thêm bài Truyện KiềuTừ 1797 đến năm 1804 Nguyễn Du ẩn dật tại Tiên Nguyễn Phúc Ánh lật đổ nhà Tây Sơn Nguyễn Quang Toản, rồi mời Nguyễn Du ra làm quan; ông từ mãi mà không được nên miễn cưỡng tuân mệnh. Năm 1805, ông bắt đầu vào Huế làm quan với nhà Nguyễn và được thăng Đông Các điện học sĩ, tước Du Đức Hầu. Năm 1813, thăng Cần Chánh điện học sĩ, được cử làm Chánh Sứ đi Trung Quốc. Sau khi về nước, năm 1815, ông được thăng Lễ Bộ Hữu Tham công danh của Nguyễn Du với nhà Nguyễn chẳng có mấy trở ngại. Ông thăng chức nhanh và giữ chức trọng, song chẳng mấy khi vui, thường u uất bất đắc Đại Nam Liệt Truyện "Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn, cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết nói năng gì..."Năm 1820, Minh Mạng lên ngôi, cử ông đi sứ lần nữa, nhưng lần này chưa kịp đi thì ông đột ngột qua Nam Liệt Truyện viết "Đến khi đau nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi. Ông nói "được" rồi mất; không trối lại điều gì."Tác phẩm tiêu biểuNgoài Truyện Kiều nổi tiếng ra, Nguyễn Du còn để lạiVăn Tế Thập Loại Chúng SinhVăn Tế Sống Hai Cô Gái Trường LưuThác Lời Trai Phường Nón bằng chữ NômBa tập thơ chữ Hán điển hìnhThanh Hiên Thi TậpNam Trung Tạp NgâmBắc Hành Tạp LụcCác bài thơ khácCảm Hứng Trong TùĐầu Sông Chơi DạoĐứng Trên Cầu Hoàng Mai Buổi ChiềuĐêm Đậu Thuyền Cửa Sông Tam GiangĐêm Rằm Tháng Giêng Ở Quỳnh CôiLưu Biệt Anh NguyễnMộ Đỗ Thiếu Lăng Ở Lôi DươngMiếu Thờ Mã Phục Ba Ở Giáp ThànhNgày Thu Gởi HứngNói Hàn Tín Luyện QuânNgười Hát Rong Phủ Vĩnh BìnhNgồi Một Mình Trong Thủy CácNgựa Bỏ Bên ThànhNgày Xuân Chợt HứngLong Thành Cẩm Giả CaTranh Biệt Cùng Giả NghịQua Sông Hoài Nhớ Thừa Tướng VănXúc Cảm Đình Ven SôngViếng Người Con Hát Thành LaTrên đây VnDoc đã giới thiệu tới các em Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Du. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các em học sinh tài liệu Giải bài tập Toán lớp 9, Trắc nghiệm Tiếng Anh 9, Lý thuyết môn Vật lí lớp 9, Giải Tập bản đồ Lịch Sử lớp 9 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải. và thời đại của chúng ta Phạm Cao DươngThời đại và cuộc đời của những người Việt chúng ta thuộc hậu bán thế kỷ thứ hai mươi, tiền bán thế kỷ 21 này, nếu được diễn tả bởi những thiên tài văn học tương lai hay đã có nhưng hiện chưa được khám phá, chắc chắn còn có nhiều giá trị hơn gấp bội. Mong lắm thay! Trong hầu hết các tác phẩm viết về Văn Học Sử Việt Nam, Nguyễn Du thường được xếp vào thời Nguyễn Sơ hay Tiền Bán Thế Kỷ 19. Sự sắp xếp này có lẽ đã được căn cứ vào thời gian nhà đại thi hào của chúng ta sáng tác Truyện Kiều sau chuyến ông đi sứ nước Tầu về, tức sau năm 1813. Sắp xếp như vậy tôi nghĩ không được hợp lý và quá tùy thuộc vào các yếu tố chính trị và vào sự phân định thời gian theo lối Tây Phương. Lý do là vì sắp xếp và phân định thời gian trong văn học sử không nhất thiết phải gò bó một cách cứng nhắc y như sự sắp xếp trong sử học, đành rằng ngay trong sử học, nhất là lịch sử văn minh, khi nói tới Thế Kỷ 19, người ta không bắt buộc phải nghĩ rằng thế kỷ này phải bắt đầu vào năm 1800 và chấm dứt vào năm 1899, cũng như Triều Nguyễn phải bắt đầu vào năm 1802. Tất cả đều có thể sớm hơn hay trễ hơn tùy từng khía cạnh hay cách nhìn của sử gia về mỗi vấn đề, mỗi tác giả. Lý do rất đơn giản một tác phẩm văn học, đặc biệt tác phẩm văn học lớn thường phản ảnh hoàn cảnh chính trị và xã hội của cả thời đại của tác giả. Đối với Truyện Kiều, được viết sau năm 1813 không có nghĩa là chỉ thuộc Thế Kỷ 19, chỉ thuộc Thời Nguyễn Sơ. Trái lại, đại tác phẩm này phải được coi là đã thành hình từ nhiều chục năm trước đó và được kết tinh trong thập niên thứ hai của Thế Kỷ 19, dưới thời Nhà Nguyễn. Nó không phải chỉ phản ảnh cuộc đời và tâm sự riêng của Nguyễn Du mà còn phản ảnh cuộc đời và tâm sự chung của một phần không nhỏ những người thuộc thế hệ ông, những người sinh trưởng ở Bắc Hà trong hậu bán Thế Kỷ 18, dưới thời Lê - Trịnh và còn tiếp tục sống trong những thập niên đầu của Thế Kỷ 19 dưới thời Nguyễn Sơ. Phạm Quý Thích và hơn hai chục ông nghè khác của Triều Lê chẳng hạn. Gia dĩ ngoài Truyện Kiều, Nguyễn Du còn là tác giả của nhiều tác phẩm khác không kém giá trị ngoài tính phổ thông trong dân gian của chúng, Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh mà các sư ở các chùa ở Miền Bắc luôn luôn ngâm đọc với một giọng điệu vô cùng đau thương và thảm thiết trong ngày Rằm Tháng Bảy, ngày cúng cô hồn, chẳng hạn. Trong bài này, tôi muốn cùng bạn đọc nhìn lại thời đại của Nguyễn Du và những ảnh hưởng của những gì đã xảy ra ở thời này đối với cuộc đời, tâm tư và sự nghiệp của tiên sinh, đồng thời so sánh phần nào thời đại đó với thời đại của chúng ta hiện tại với một ước vọng trong những năm tới đây chúng ta có thể chứng kiến sự ra đời của không phải của một mà nhiều tác phẩm lớn nếu không hơn thì ít ra cũng không kém tác phẩm của Tiên Điền Nguyễn Tiên Sinh. Tất nhiên ước vọng là một chuyện, có được hay không lại là một chuyện khác. Nhưng ước vọng thì cứ ước lịch sử Việt Nam từ Thế Kỷ 19 trở về trước, không có thời kỳ nào đen tối hơn thời kỳ của những năm cuối cùng của thời Lê Mạt và trong toàn bộ lịch sử Việt Nam, không có thời nào suy đốn và nhiều bạo lực hơn thời kỳ sau năm 1945. Nguyễn Du đã sống trong những năm cuối cùng của thời Lê Mạt và chúng ta đã sống trong những chục năm sau Thế Chiến Thứ Hai. Trong lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Du có thể nói là một người đã sống một cuộc sống đau thương nhất, u buồn nhất, do đó đã mang một tâm sự u uẩn nhất, xót xa nhất. Còn trong lịch sử dân tộc, chúng ta là những kẻ đã phải gánh chịu hay được chứng kiến nhiều cảnh đổ vỡ, chia ly éo le nhất, từ đó đã mang những niềm đau khắc khoải nhất, thầm kín nhất, đặc biệt là những người đã có cái may, hay không may sinh ra và trưởng thành trong những năm trước khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt và hiện tại vẫn còn đang sống. Nguyễn Du cũng là người có cái may đồng thời cũng là cái không may tương tự. Hai đại biến cố, hai cuộc đời cách nhau ngót hai trăm năm, tuy mang những tính cách đặc thù của những biến cố và những sự thực lịch sử vẫn có những tác động giống nhau đối với nội tâm của con người. Có khác chăng là ở thời Nguyễn Du mọi chuyện chỉ xảy ra quanh quẩn trong nội địa của nước Việt Nam và giữa người Việt Nam với nhau. Còn ở thời đại chúng ta mọi chuyện đã xảy ra trên một bình diện lớn lao hơn, cổ kim chưa từng có, là khắp thế giới. Biến cố 30 tháng 4, 1975 đã bẩy tung hàng triệu người Việt ra khắp địa cầu để đến bây giờ, bước sang Thiên Niên Kỷ Thứ Ba sau Tây Lịch, một học sinh Việt Nam đã có thể hãnh diện được học rằng “Mặt trời không bao giờ lặn trên những miền đất có người Việt Nam cư ngụ!” thay thế cho một học sinh người Anh hồi cuối Thế Kỷ 19, với tất cả những cái may cũng như những cái không may của sự kiện lịch sử này. Sinh năm 1765, dưới thời Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26, trong một gia đình cha, chú, anh, em đều thi đậu và làm quan to vào bậc nhất phẩm đương thời. Nguyễn Du đã có dịp sống cuộc đời niên thiếu của một công tử con nhà thế gia, vọng tộc ở chốn kinh đô ngàn năm văn vật, vào lúc cơ nghiệp của hai họ Lê, Trịnh còn tương đối vững chãi, chưa có gì báo trước một sự xụp đổ trong tương lai. Ông hãy còn được thấy tận mắt hay được nghe nói về cuộc sống nghiêm ngặt hay nhàn rỗi, xa hoa ở các cung vua, phủ chúa vào lúc nước nhà vô sự như được tả trong Thượng Kinh Ký Sự của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác 1720 – 1791 hoặc Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Đình Hổ 1768 – 1839, mặc dầu cha mẹ mất sớm và mặc dầu không được thành công lắm trên đường khoa hoạn. Nhưng kể từ khi Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm mất 1782, thế đứng của hai họ Lê, Trịnh đã bắt đầu suy sụp. Kiêu Binh làm loạn 1784 và Tây Sơn ra Bắc 1786 – 1787 đã chấm dứt triều đại Nhà Lê sau ngót bốn trăm năm trị vì kể từ khi Lê Thái Tổ đánh đuổi Quân Minh dựng nên nghiệp lớn 1428 -1787 và làm xụp đổ ngôi chúa của họ Trịnh. Tố Như Tiên Sinh lúc ấy mới có 22, 23 tuổi. Cuộc đời đầy u buồn, bất đắc chí, xen lẫn với những nuối tiếc của ông bắt đầu từ khi ông phải tản cư về ẩn náu ở quê vợ thuộc xã Hải An, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình ngày nay, xa hẳn đất kinh kỳ, nơi sau này chỉ còn là cảnhThiên niên cự thất thành quan đạo, Nhất phiến tân thành một cố cung. Thăng Long IDinh xưa cung cũ còn đâu?Mà nay đường trước thành sau khác rồi! Hoa Đăng dịchhayTương thức mỹ nhân khan bão tử,Đồng du hiệp thiếu tận thành đẹp buổi xưa đều bế trẻ,Bạn chơi thuở nhỏ thẩy thành ông!Quách Tấn dịchkhi Nguyễn Du “Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long” Bạc đầu còn được thấy Thăng Long nhân chuyến đi sứ Nhà Thanh vào năm 1813 có dịp ghé hết, sự đổi chủ đã không diễn ra một cách êm đềm mà trong cảnh “Máu tươi lai láng , xương khô rụng rời” với những “ Bãi sa trường thịt nát máu rơi” để “Phơi thây trăm họ nên công một người” đã liên tiếp xảy ra mà Nguyễn Du đã tả trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh. Nguyễn Hữu Chỉnh, người bạn giao du thân thiết với anh em họ Nguyễn, người được coi là thiên tài vô song của đất Bắc Hà, đã bị xé xác, phơi thây, bào huynh của Nguyễn Du là Nguyễn Quỳnh cũng bị Tây Sơn giết chết. Anh em xưa kia quây quần đông đúc, nay ly tán mỗi người một phương, còn chính Nguyễn Du cũng đã hơn một lần bị Tây Sơn bỏ ngục. Cuối cùng vào năm 1796, tiên sinh đã phải bỏ tất cả, trở về sống ở chốn cố hương, ngày ngày đi săn để mai danh ẩn tích, nhưng vẫn một lòng tưởng nhớ tới Nhà Lê với một tâm sự mà Hồng Liên Lê Xuân Giáo, một trong những vị túc nho lão thành đã di tản sang sống ở San Diego trong thời đại của chúng ta, đã so sánh với tâm trạng của Đặng Dung, xuyên qua hai câu thơ trong bài Thuật Hoài của vị nghĩa sĩ của Thời Hậu Trần nàyTrí chủ hữu hoài phù địa trục,Tẩy binh vô lộ vãn thiên khiêng trái đất mong phò chúa,Giáp gột sông trời khó vạch mây.Phan Kế Bính dịchVới một lòng ước vọng không bao giờ đạt được là “Muốn ra tay tát cạn Biển Đông”. Có điều là vận của Nhà Lê đã hết. Năm 1802, Gia Long thống nhất đất nước. Người ẩn sĩ đã không sao ẩn được danh mình vào lúc toàn thể non sông đã đổi chủ, vào lúcTrời Đông Phố ào ào gió động,Hội tao phùng đái ủng tân quân.Bùi Kỷ, Văn Tế Tiên Điền Nguyễn DuĐể cuối cùng thấy mình “dật dân bỗng hóa hàng thần lạ thay” hay “Hàng thần lơ láo” và chẳng biết “phận mình ra đâu”. Bị triệu vời với đích danh, Nguyễn Du đã phải ra làm quan với Nhà Nguyễn một cách miễn cưỡng trong nhiều năm ròng rã. Cuối cùng ông đã tự kết liễu đời mình bằng cách đau mà không chịu uống thuốc. Nếu lập một bảng đối chiếu đại cương thời đại Nguyễn Du với thời đại chúng ta hiện tại, ta có thể thấy vô số những điểm tương đồng. Cũng với đất nước bị chia đôi với con Sông Gianh được thay thế bằng Sông Bến Hải. Cũng một xã hội tuy không cường thịnh nhưng những gì các thế hệ trước để lại vẫn còn nguyên vẹn, với những thành trì, cung điện, lăng tẩm, chùa chiền, đền miếu, tập tục, lễ nghi, văn chương đạo đức... mà một dân tộc văn minh phải lấy làm hãnh diện. Cũng với những mốc thời gian then chốt, 1784 và 1787 cho thời Nguyễn Du và 1945, 1975 cho thời hiện tại. Cũng với những đổi thay và đổi đời vĩ đại, khủng khiếp cho một con người bình thường, với những cảnh “thất thế tên rơi, đạn lạc”, “máu tuôn lai láng , xương khô rụng rời” trên mặt đất, hay những trường hợp “đem thân chôn giấp vào vòng kình nghê” trên mặt biển, đặc biệt là của những thành phần xưa kia “phong gấm rủ là”, “màn lan trướng huệ”, “cung quế phòng hoa”. Nhưng ở thời đại chúng ta còn ngang trái, bi thảm hơn nhiều. Người anh hùng đất Bình Định, sau khi diệt Nhà Lê, đã đánh dấu triều đại của mình bằng chiến thắng vĩ đại ở Gò Đống Đa, tiếp đó đã khơi dậy trong lòng dân tộc mình một tinh thần tự tin và tự chủ qua dự định lấy lại Lưỡng Quảng về cho đất nước, do đó đã được một phần dân chúng Bắc Hà chấp nhận. Những kẻ xâm chiếm Miền Nam năm 1975 đã không làm nên điều gì mọi người mong đợi. Trái lại, chiến thắng của họ đã xô đẩy dân tộc Việt Nam đến một tình trạng càng ngày càng tăm tối, tồi tệ hơn. Ở thời đại Nguyễn Du, tuy bất đắc dĩ phải phục vụ tân quân và tân triều, nhưng các sĩ phu Bắc Hà thời ông đã được phục vụ với đầy đủ danh dự như là những quan lại, kể cả quan lại cao cấp của Triều Đình Huế. Ở thời đại của chúng ta, những kẻ hậu duệ của Tố Như Tiên Sinh cũng phải miễn cưỡng ra phục vụ triều đại mới nhưng là phục vụ trong những trại tù khổ sai được những kẻ chiến thắng, giả nhân, giả nghĩa gọi là lao động cải tạo hoặc đem thân ra làm thuê, làm mướn nơi đất khách, quê người để nhà cầm quyền lấy tiền trả nợ, hay lên các vùng kinh tế mới ở với rắn và gió, trong những căn lều không vách... Ở thời đại Nguyễn Du không có những trận đói trong đó nhiều làng một mạng sống không còn để những thành phần chống đối chính quyền đương nhiệm có cơ lợi dụng. Ở thời đại chúng ta không ai có thể quên được Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu 1945 khiến hai triệu người bị chết. Ở thời đại Nguyễn Du không có chuyện vu cáo và thanh toán lẫn nhau bằng kết tội nhau là Việt gian, phản động và thủ tiêu nhau vô tội vạ. Ở thời đại Nguyễn Du không có chuyện Tự Vệ Vũ Trang với những cuộn dây thừng để bắt Việt gian, với Công An chận đường bắt cóc mang đi mất tích hay đương đêm vào nhà bắt người mang đi rồi ít ngày sau nạn nhân chỉ còn mình một nơi, đầu một nẻo với một bản án gắn trên ngực, không có chuyện đồng chí con, đồng chí bố, vợ tố cáo chồng, con tố cáo cha, không có Đảng, không có Cách Mạng có quyền sinh sát trong tay để khoan hồng hay bắt người đền tội. Ở thời đại Nguyễn Du không có những cuộc chiến triền miên kéo dài cả ba chục năm mà vẫn chưa hoàn toàn kết thúc với ba, bốn và có thể năm triệu người chết và không biết bao nhiêu triệu người đau khổ. Ở thời Nguyễn Du biến loạn chỉ ảnh hưởng giới hạn trong giới cầm quyền hay lãnh đạo. Ở thời Nguyễn Du chiến tranh chỉ xẩy ra ở kinh đô và một số những địa điểm quan trọng. Ở thời đại chúng ta, chiến tranh xả ra ở khắp các làng xã, các hang cùng ngõ hẻm, thậm chí cả những vùng rừng núi, những thôn bản xa xôi, trước kia rất ít người các miền đồng bằng lui tới. Ở thời đại chúng ta, chiến tranh là chiến tranh toàn diện, không một người dân nào, dù là đàn bà, con trẻ, những kẻ khố rách, áo ôm, những người cùng đinh trong xã hội, bằng cách này hay cách khác, không bị cuốn hút vào cuộc chiến, sau đó là sự cưỡng chiếm miền Nam của người Cộng Sản miền Bắc và cuộc ra đi tị nạn của hàng triệu dân Việt trong suốt hơn bốn chục năm và ảnh hưởng của nó trên toàn cầu, cùng với lối trả thù những người bị kẹt lại một cách vô cùng hiểm độc, dã man, khó có thể tưởng tượng được bởi những người Cộng Sản miền Bắc sau biến cố 30 tháng Tư, 1975. Tất cả đã dẫn tới hai phong trào dời bỏ quê hương mà Phạm Duy, trong bài 1954 Cha Bỏ Quê, 1975 Con Bỏ Nước đã diễn tả bằng những câu hát như Một ngày năm bốn cha bỏ Sơn TâyDắt díu con thơ vô sống nơi Biên HòaDù là xa đó vẫn là nước nhàMột mảnh đất thân yêu gia đình ta. ............ Một ngày bảy lăm con đứng ở cuối đườngLoài quỷ dữ xua con ra đại dươngMột ngày bảy lăm con bỏ nước ra điHai mươi năm là hai lần ta biệt xứGiờ cha lưu đầy ở ngay trên nước taVà giờ con lưu đầy ở đây nơi xứ lạ...Cuối cùng là sự thành hình của Cộng Đồng Việt Nam ở Hải Ngoại với nhiều hứa hẹn sẽ trở thành thành phần thứ hai của Dân Tộc Việt Nam độc lập với thành phần ở trong nước mà tôi gọi là Siêu Quốc Gia Việt Nam của Thiên Niên Kỷ Thứ Ba với Thế Kỷ 21 là thời kỳ chuyển so sánh kể trên nếu chỉ được đặt ra một cách đơn thuần, nói chung, có thể bị cho là không cần thiết, đặc biệt là đối với những người thường lưu tâm đến sự nghiệp của thi hào Nguyễn Du, nói riêng, ai cũng có thể làm được. Nhưng tôi đã lựa chọn nó để trình bày ở đây vì từ trước tới giờ tôi luôn luôn thắc mắc là ở thời Lê Mạt, một thời không có gì đáng gọi là huy hoàng của lịch sử dân tộc, đứng trên bình diện chính trị, ngoại giao hay quân sự , trái lại đó là một thời kỳ đại loạn, thế mà trong thời này lại có nhiều tác phẩm lớn, bất hủ xuất hiện. Thời của chúng ta so với thời Lê Mạt còn tệ hại hơn nhiều. Câu hỏi được đặt ra là liệu rằng trong thời hiện tại đã có những công trình nào đáng kể xuất hiện chưa và trong tương lai liệu có tác phẩm nào xuất hiện không? Nguyễn Du với những tâm sự u uẩn bời bời, chất chứa trong lòng từ nhiều chục năm, sau chuyến đi sứ sang Tầu của ông đã để lại cho hậu thế những áng văn vô giá, bất hủ. Người Việt chúng ta trong thời đại mới cũng có dịp xuất ngoại và xuất ngoại ra nhiều hơn là ra một nước Trung Hoa và lưu lại suốt đời hơn là một thời gian đi sứ ngắn ngủi. Liệu rằng trong những năm, những chục năm sắp tới, điều người ta mong đợi có xảy ra không? Câu hỏi này cho đến nay chưa có câu trả lời, nhưng tôi tin tưởng rằng một khi được tìm tòi sẽ có rất nhiều hy vọng là sẽ có, nhất là ở các anh em trẻ vì anh em vừa được sống, vừa được học hỏi. Thời Nguyễn Du, Tiên Sinh và những người đồng thời với Tiên Sinh chỉ được biết có một nước Tầu. Trong thời đại của chúng ta, chúng ta được biết nhiều hơn một nước Pháp hay một nước Mỹ, một nước Nga hay một nước Tầu. Hơn thế nữa, trong thời đại Nguyễn Du, Nguyễn Du và các cựu thần Nhà Lê khác đã mang những mặc cảm tội lỗi với triều đại cũ, những bạn bè xưa và với chính mình. Những Nhà Nho này đã hơn một lần bị đưa ra làm đề tài chế diễu. Trong thời đại của chúng ta, không thiếu những anh em, bà con của chúng ta mang những tâm sự đau lòng của những kẻ bất đắc dĩ phải đào tẩu, bỏ lại cha mẹ, vợ con, anh em, bạn bè, chiến hữu, thuộc cấp đã từng nhiều năm sát cánh chiến đấu với mình, che chở đùm bọc cho mình và đào tẩu bằng những phương tiện của người bạn cũ mà mình cho là đã phản bội mình, đào tẩu với một ý thức rõ ràng là hành động này sẽ làm cho phần đất mà mình phải bảo vệ sụp đổ mau chóng hơn. Sau đó tất cả đều đã phải tranh đấu, vật lộn để tồn tại, để hướng về tương lai, tương lai cho chính mình, cho con cháu mình và tương lai cho cả tập thể mình với những nỗi lòng không dễ gì bày tỏ cùng ai được, chẳng khác gì những miếng cơm, ngụm nước mà không thiếu gì những bà con vượt biển của chúng ta đã phải nghẹn ngào nuốt nước mắt, xót xa, tủi nhục khi nhận lãnh từ tay đám hải tặc trước đó đã làm hại đời một bài tham luận đăng trên tờ Hành Trình do Nhà Văn Cao Thế Dung chủ trương ở Thủ Đô Washington trước đây, tôi có đưa ra một nhận xét về “Bi thảm tính trong văn hóa Việt Nam” và cho rằng đặc tính này là một trong những đặc tính của văn hóa dân tộc Việt Nam. Nó đã làm cho nền văn hóa của dân tộc ta trở nên vô cùng phong phú, vô cùng sâu sắc và hấp dẫn sau một bề ngoài có vẻ u buồn, thiếu những mầu sắc vui tươi so với nhiều văn hóa khác. Nguyễn Du là một trong những bằng chứng của bi thảm tính đó. Nhưng tác phẩm của ông sở dĩ mang đặc tính ấy và trở nên muôn đời bất hủ là vì nó phản ảnh cuộc đời và thời đại của tác giả, một cuộc đời và một thời đại đầy dẫy những bi thảm và ngang trái. Thời đại và cuộc đời của những người Việt chúng ta thuộc hậu bán Thế Kỷ Thứ Hai Mươi, tiền bán Thế Kỷ 21 này, nếu được diễn tả bởi những thiên tài văn học tương lai hay chưa được khám phá, chắc chắn còn có giá trị hơn gấp bội. Có điều ước vọng là một chuyện, có được hay không lại là một chuyện khác. Đời người quá ngắn ngủi mà những gì người ta ước mong được thấy hay muốn làm thì nhiều, đúng như nhà thơ nổi tiếng của văn học miền Nam và hải ngoại, Tô Thùy Yên, người mới từ giã chúng ta để về nơi miên viễn, đã than trong bài hành bất hủ "Ta Về" của ôngTa về như hạc vàng thương nhớMột thuở trần gian bay lướt quaTa tiếc đời ta sao hữu hạnĐành không trải hết được lòng ta!Và người ta không khỏi không nghĩ tới tâm sự đầy u uẩn của Nguyễn DuBất tri tam bách dư niên hậuThiên hạ hà nhân khấp Tố Như!Ba trăm năm lẻ về sau,Hỏi ai người nhỏ lệ sầu Tố NhưNgười dịch, không rõCòn Tô Thùy Yên thì tuy bề ngoài có vẻ nhẹ nhàng, âm thầm chấp nhận nhưng bề trong không phải là không xót xa, oán hậnTa về một bóng trên đường lớnThơ chẳng ai đề vạt áo phaiSao bỗng nghe đau mềm phế phủMười năm đá cũng ngậm ngùi thay!Với gần mười ba năm tù, Tô Thùy Yên đã phải sống gần hết thời gian đẹp nhất của cuộc đời trong trại tù khổ sai không có án. Hai chữ “mười năm” đã trở thành nỗi ám ảnh không rời đối với ông khiến ông đã nhiều lần nhắc tới trong bài thơ trường thiên ông làm kể trênVĩnh biệt ta mười năm chết dấpChốn rừng thiêng im tiếng nghìn thuMười năm mặt sạm soi khe nướcTa hóa thân thành vượn cổ sơ!Mười năm thế giới già trông thấyĐất bạc màu đi, đất bạc màuMột đời được mấy điều mong ước?Núi lở sông bồi đã lắm khi…Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng độngMười năm, cổ lục đã ai ghi? Mười năm chớp bể mưa nguồn đóNgười thức nghe buồn tận cõi dốc hơi thu lùa nỗi nhớMười năm người tỏ mặt nhau đâyTa nhớ người xa ngoài nỗi năm ta vẫn cứ là kể lại mười năm mộng dữMột lần kể lại để rồi thôiHoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?Mười năm, cây có nhớ người xa?Mười năm con đã già trông thấyHuống mẹ cha, đèn sắp cạn dầuTa về như nước Tào Khê chảyTinh đẩu mười năm luống nhạt cuối cùng thì tác giả đành mượn chén rượu để giải oanChút rượu hồng đây xin rưới xuốngGiải oan cho cuộc biển dâu này!Nguyễn Du may mắn hơn. Thời đại của Tiên Điền tiên sinh chưa có trại tù cải tạo. Không những không bị đi tù, trái lại, ông còn được trịnh trọng mời ra hợp tác với tân triều và lãnh những trách vụ quan trọng ở triều đình, kể cả đi điều, đúng như lời Tản Đà của nửa đầu thế kỷ trước, cuối cùng tất cả chỉ còn làCửa động, đầu non, đường lối cũNghìn năm thơ thẩn bóng trăng Phạm Cao DươngKhởi viết cuối Thu 1982 nhân Ngày kỷ niệm Thi hào Nguyễn Dutại Quận Cam California, Hoa KỳSửa chữa và phổ biến đầu hè 2019 lý thuyết trắc nghiệm hỏi đáp bài tập sgk Câu hỏi Thời đại, gia đình , bản thân nguyễn du ảnh hưởng như thế nào tới việc dáng tác truyện kiều Cuộc đời, bản thân, thời đại của Nguyễn Du có ảnh hưởng như thế nào đến "Truyện Kiều". Trình bày hiểu biết của em bằng đoạn văn 15 câu theo phương pháp lập luận diễn dịch. Huhu mọi người giúp em với ạ. Cám ơn nhiều ạaaaa!! Xem chi tiết tìm hiểu về tác giả Nguyễn Du xuất thân, cuộc đời, gia đình, sự nghiệp văn họcTác phẩm Truyện Kiều nguồn gốc, thể loại, giá trị nội dung và nghệ thuật Xem chi tiết Queen 2 tháng 8 2021 lúc 1643 Trong Truyện Kiều , Nguyễn Du viết '' Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài ''Em hiểu như thế nào về quan điểm đó. Hãy làm sáng tỏ cái tâm của Nguyễn Du trong Truyện Kiều qua bài Chị em Thúy Kiều và Kiểu ở lầu Ngưng Bích hình thứ là 1 bài văn 6đ ạplzz Xem chi tiết *Hàn Mặc Tử từng nói "Người thơ phong vận như thơ ấy". Hãy giải thích và chứng minh ngắn gọn qua một tác giả và một tác phẩm lấy tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du *Mọi người giúp mình viết mở bài và kết bài với ạ! Xem chi tiết Nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du ở hai đoạn trích "Chị em Thúy Kiều” và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích ” khác nhau như thế nào?Gắp lắm ạ5h 11/9/2021 Xem chi tiết Thi pháp văn học trung đại là gì? Lấy ví dụ về thi pháp văn học trung đại trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Xem chi tiết Trong Nghĩ thêm về Nguyễn, Chế Lan Viên viết Các triều đại bể dâu nhưng thi cảo trường tồn Anh lập công trên dòng ngôn ngữ ấy Bạch Đằng anh là cắm cọc vào thời gian nước chảy Cho nghìn năm sau vầng trăng tiếng việt mãi còn. Em hiểu như thế nào về ý thơ Truyện kiều, bàn về sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Du Xem chi tiết Trong câu thơ “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”Câu thơ trên liên quan bút pháp nào của ng du trong truyện kiều e hiểu như thế nào về bút pháp đó Xem chi tiết Tóm tắt bài Truyện Kiều của Nguyễn Du Xem chi tiết Trong phim "Đại thi hào Nguyễn Du", danh nhân buồn lòng khi thời thế đổi thay, phải sống nghèo khổ, nương nhờ nhà vợ ở đất Thái Bình. Tác phẩm tài liệu được đạo diễn Nguyễn Văn Đức "thai nghén" ba năm, chiếu tại Liên hoan phim Việt Nam tháng 11. Thời lượng ba tiếng, phim tái hiện cuộc đời, sự nghiệp đại thi hào, từ lúc chào đời năm 1765 đến khi qua đời năm 1820. Không chỉ đơn thuần tường thuật, tác phẩm lý giải căn nguyên hình thành nhân cách, tư tưởng của nhà thơ, từ đó phân tích tác động của chúng với văn chương của đại thi hào. Trailer phim "Đại thi hào Nguyễn Du". Video Việt MediaTừ nhỏ, ông là cậu bé có trí tuệ, sớm hiểu sự đời. Sinh ra trong gia đình quý tộc, là con thứ của Tể tướng Nguyễn Nghiễm, ông có tấm lòng nhân ái, yêu thương chúng sinh, đồng cảm với người nông dân, cậu bé ăn mày. Đặc biệt, tài năng thơ của ông sớm bộc lộ, được cha đặt nhiều kỳ vọng. Diễn viên nhí Doãn Đức Huy đóng Nguyễn Du lúc nhỏ. Ảnh Việt Media Nhà Tây Sơn lên nắm chính quyền từ năm 1778 khiến gia đình ông - dòng họ quan lại thời Hậu Lê - thất thế. Nguyễn Du sống ẩn dật ở đất Quỳnh Côi Thái Bình. Nhiều lần, anh vợ ông là nhà thơ Đoàn Nguyễn Tuấn khuyên em ra hợp tác nhà Tây Sơn nhưng ông cự tuyệt, không muốn dính dáng chốn quan trường, chấp nhận cuộc sống nghèo khó. Phim tái hiện nỗi đau đáu của ông khi cha mẹ mất sớm, anh em ly 10 năm ở ẩn đất Thái Bình, Nguyễn Du được nhà Nguyễn, lúc này đã thay thế nhà Tây Sơn, triệu ra phong làm tri huyện. Ông từng bốn lần từ chức nhưng rồi vẫn phải nhận chiếu vua, trở lại chính trường. Nguyễn Du coi đường làm quan chỉ là nghề kiếm sống, còn tâm hồn ông dành hết cho thi ca, như câu thơ trong bài Mạn hứng kỳ 2 "Cuộc đời trăm năm, kiết xác với văn chương".Bên cạnh chân dung Nguyễn Du, phim tái hiện hình ảnh những phụ nữ tần tảo, ảnh hưởng đến cuộc đời, con người đại thi hào. Mẹ ông là bà Trần Thị Tần, quê ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Từ nhỏ, mẹ, bà ngoại thường hát ru ông bằng dân ca Kinh Bắc, đưa ông đi thăm nhiều chùa chiền quanh vùng. Vì thế, các tác phẩm của Nguyễn Du sau này thấm đẫm tư tưởng Phật giáo về nhân - quả, các triết lý luân hồi của nhà vợ đầu tiên của ông - bà Đoàn Thị Tộ - tháo vát, chịu thương chịu khó, chạy vạy buôn bán lo cho gia đình suốt 10 năm ông ẩn cư ở Thái Bình. Đây cũng là khoảng thời gian ông bắt đầu viết Đoạn trường tân thanh. Trong một cảnh phim, đạo diễn khéo léo cài cắm việc dân gian truyền miệng Truyện Kiều, qua cảnh bà Tộ đi chợ, được chị em xúm xít yêu cầu đọc thơ của có đoạn nhắc tới mối tình giữa Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương - xuất hiện trong nhiều giai thoại. Sinh thời, Hồ Xuân Hương sáng tác bài thơ Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu, được nhiều người suy đoán bà viết gửi ông. Giai thoại kể hai người quen biết trong một lần đi thuyền hái sen ở Hồ Tây, cảm mến tài thơ và nhân cách của nhau. Mối duyên kéo dài trong ba năm, cho tới khi Nguyễn Du phải về lại Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh đề xây từ đường cho dòng họ. Đạo diễn Nguyễn Văn Đức cho biết duyên gặp gỡ giữa hai thi nhân được ghi lại ngắn gọn trong gia phả họ nội Nguyễn Du ở Hà Tĩnh. Anh cũng tham khảo các chi tiết trong truyện Thêm một mối tình, tập Lãng đãng Nguyễn Du của tác giả Hoàng Khôi, Mai Ngọc Chúc. Sỹ Hưng đóng Nguyễn Du giai đoạn trưởng thành. Ảnh Việt Media Tác phẩm tạo sự lôi cuốn, kết nối qua các câu thơ của Nguyễn Du, chủ yếu là Truyện Kiều. Đoàn phim huy động đội ngũ gồm 50 diễn viên chính, phụ, hàng trăm diễn viên quần chúng. Bối cảnh, phục trang nhân vật đẹp, hài hòa. Nhờ sự tư vấn kịch bản từ nhiều nhà Kiều học, phim đi sâu lý giải những con người, cảnh vật tạo cảm hứng cho ông sáng tạo tuyệt tác dân tộc. Điểm trừ của phim là nhiều phần phỏng vấn các chuyên gia, nhà nghiên cứu hay nhân chứng xuất hiện đột ngột, làm đứt mạch cảm xúc khi người xem đắm chìm vào câu chuyện cuộc đời Nguyễn sĩ Đỗ Hồng Quân nhận xét phim không gây nhàm chán dù thời lượng dài. Ông đánh giá cao màn hóa thân của các diễn viên, nhất là là Sỹ Hưng trong vai Nguyễn Du. Ngoài ra, ông thích phần âm nhạc dân gian, tạo nét mộc mạc, dung dị cho sĩ Đinh Khánh Ly - người phụ trách âm nhạc - cho biết đoàn phim tái hiện nhiều làn điệu cổ, gắn với từng giai đoạn trong cuộc đời ông. Đó là điệu dân ca quan họ Bắc Ninh nơi ông sống thuở nhỏ, chèo cổ Thái Bình gắn với thời gian ông ở quê vợ và điệu ví dặm ở quê nội Hà Tĩnh. Hoàng Phượng đóng vai bà Trần Thị Tần mẹ Nguyễn Du. Ảnh Việt Media Phim sản xuất theo thể loại tài liệu dàn dựng, có diễn viên diễn xuất, phổ biến ở nhiều nước phương Tây từ những năm 1960. Lời thoại, cử chỉ các nhân vật là hư cấu nhưng đảm bảo các mốc thời gian, biến cố lớn trong cuộc đời họ. Êkíp liên hệ với các nhân vật như anh Nguyễn Hải Nam - hậu duệ đời thứ 14 của đại thi hào ở Hà Tĩnh, ông Trần Văn Bột - cháu bên ngoại của ông ở Bắc Ninh. Trong quá trình duyệt, Hội đồng thẩm định phim quốc gia tham vấn ý kiến từ Giáo sư, Tiến sĩ Trần Nho Thìn, Trần Đình Sử. Tác phẩm có kinh phí 15 tỷ đồng, dự định ra mắt năm ngoái, dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du nhưng nhiều lần bị lùi vì diễn Nguyễn Văn Đức sinh năm 1959, tốt nghiệp Đại học Điện ảnh quốc gia toàn Liên bang Xô Viết, nay là Viện Điện ảnh Nga. Anh từng quay một số phim như Trăng trên đất khách đạo diễn Tất Bình, Người đi tìm giấc mơ đạo diễn Nguyễn Thế Vĩnh, Khi người ta yêu đạo diễn Trần Phương... Từ năm 2010, anh chuyển sang làm đạo diễn, thực hiện các phim truyền hình như Bến tình yêu, Sóng ngầm, một số phim dài 90 phút phát trên truyền hình như Hạt mưa sa, Tìm lại ngày đã mất, Trái tim người mẹ, Huyền thoại Mường Thu

thời đại nguyễn du